Thứ Bảy, 15 tháng 4, 2017

30 - 04, 1975 THỜI KHẮC LỊCH SỬ KINH HOÀNG VÀ ĐEN TỐI NHẤT CỦA LỊCH SỬ VIỆT NAM...








         SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU






Đỗ Minh Tuyến

Hàng năm cứ đến thời khắc lịch sử này của ngày 30 tháng 04...là đồng bào Việt Nam sống trong và ngoài nước đều trải qua những cảm giác chung thiêng liêng khó lòng gột tả... Hình ảnh oai hùng của các sỹ quan chiến sỹ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa vốn luôn tiềm ẩn trong lòng mọi người chợt hiện về... và biết bao ấn tượng tốt đẹp cả vui lẫn buồn của những con người vì nước quên thân... vì đồng bào ruột thịt của mình không quản ngại gian nan khốn khó cầm chắc tay súng bảo vệ từng tấc đất, và từng hơi thở của đồng bào Việt Nam... và cũng vì trách nhiệm và danh dự của Tổ quốc Việt Nam... các Anh đã ngã xuống...đã dùng chính dòng máu nhiệt huyết của mình tưới lên lòng đất Mẹ...cũng như tô thắm cho lá Quốc kỳ bao đời vinh quang của đất Việt Nam. Và cũng vì trách nhiệm thiêng liêng cao cả và danh dự ngàn đời của các chiến sỹ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa... các Anh đã chọn cho mình con đường tuẫn tiết đầy cao ngạo... Thà chết một cách oai hùng chứ quyết không để rơi vào bàn tay tàn ác của những người cộng sản. Chúng ta hãy dành một phút mặc niệm để tri ân công lao to lớn của các Anh... để thế hệ trẻ Việt Nam hôm nay hiểu đúng và hiểu rõ hơn về những người con hào hùng của Quê hương Đất nước  ... vốn muôn đời được ghi tên trong lịch sử vàng son của Tổ quốc Việt Nam.

Ngày 30 tháng 04 cũng chính là thời khắc nhắc nhở mọi người dân Việt Nam chúng ta... đặc biệt là đồng bào của miền Nam Việt Nam thân thương hoài niệm về thời điểm đen tối nhất của Đất nước... khi cộng sản Bắc việt chà đạp lên những cam kết của họ đã ký trong Hiệp định Hòa bình Paris 1973 (Hiệp định Ba Lê) cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam... sau cái gọi là giải phóng và thống nhất Đất nước, hàng triệu cựu Quân Cán chính của Chính thể Việt Nam Cộng Hòa đã bị trả thù, bị hành hạ một cách khốc liệt tàn bạo và dã man trong các nhà tù dưới cái danh xưng hết sức mỹ miều của chế độ độc tài cộng sản Việt Nam được gọi là "Trại cải tạo"... thực chất đó chính là nơi các cán bộ cộng sản, những con người rừng rú man rợ thực hiện mọi hành vi dã man và vô nhân tính nhất đổ trên đầu các cựu Quân Cán chính Việt Nam Cộng Hòa mà chúng gọi là "Ngụy quân và Ngụy quyền". Hàng trăm ngàn trong số họ sau nhiều năm chịu đựng sự hành hạ tàn bạo cuối cùng đã phải bỏ mình trong các ngục tù khủng khiếp đó. Bên cạnh đó, người thân của họ cũng không được yên thân, dưới cái gọi là "Đánh tư sản"...Nhà cửa tài sản đất đai của mọi người đã bị tịch thu và bản thân họ bị buộc đến sinh sống tại các vùng kinh tế mới... đói khổ và chết chóc chính là nguyên nhân dẫn đến hàng triệu triệu người dân đã phải liều mạng sống mình rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn chạy trốn chế độ cộng sản... và hàng trăm ngàn người trong số hàng triệu người vượt biển đã bị nhấn chìm một cách đáng thương dưới đáy Đại dương.
Ngoài ra, cũng từ thời khắc lịch sử đen tối nhất của ngày 30 tháng 04, 1975 đã luôn nhắc nhở mọi người dân Việt Nam chúng ta rằng  ... Việt Nam từ một Đất nước hào hùng với bốn ngàn năm Văn hiến... từ một miền Nam Việt Nam sáng ngời được Thế giới biết và nhắc đến với cái tên gọi thật hãnh diện là "Hòn ngọc Viễn đông"... bổng chốc đã trở nên một Xã hội Việt Nam đầy bất ổn, đầy dẫy bạo lực... Một Đất nước Việt Nam được cai trị bởi một tập đoàn cộng sản ươn hèn và tàn ác... chỉ biết tham nhũng, chỉ biết quyền lực và lợi ích bản thân đã đi ngược lại lợi ích của Đất nước và quyền lợi của người dân... Một Đất nước Việt Nam Tự do Dân chủ và Nhân quyền bổng chốc trở thành một Đất nước một Quê hương đau khổ... Ở nơi đó, người dân có mắt mànhư mù, có tai mà như điếc và có miệng mà như câm không được phép nói bất cứ điều gì dù đó là sự thật, dù đó là những điều hiển nhiên đang xảy ra hàng ngày trong Xã hội và trên Quê hương Đất nước... Một Đất nước có chủ quyền mà phải cúi lạy kẻ thù xâm lược... Một Đất nước được mệnh danh là một Đất nước pháp quyền... mà luật pháp và Hiến pháp của Nhà nước bị chà đạp một cách trắng trợn và thảm hại... một Nhà nước mà quân đội và công an luôn đứng về phía kẻ thù quay lưng lại với người dân một cách hết sức tàn nhẫn... Tưởng nhớ về biến cố lịch sử 30 tháng 04 cũng là cách duy nhất nhắc nhở mọi người dân Việt Nam trong và ngoài nước... hãy thật sự cùng nhau đoàn kết, cùng quy về một mối để tìm ra phương cách hữu hiệu nhất nhằm sớm giải thể chế độ độc tài cộng sản tàn bạo và vô nhân hiện nay tại Việt Nam.



LỊCH SỬ HÀO HÙNG CỦA MỘT SỐ SỸ QUAN QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA TIÊU BIỂU... VÌ DANH DỰ VÀ TRÁCH NHIỆM ĐÃ TUẪN TIẾT SAU NGÀY MIỀN NAM RƠI VÀO TAY CỘNG SẢN BẮC VIỆT 30/04/1975.



                                             




Nguyễn Khoa Nam (1927-1975), nguyên là Thiếu tướng, Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.

Nguyễn Khoa Nam sinh ngày 23 tháng 9 năm 1927 tại Đà Nẵng. Năm 1953 ông nhập ngũ Khóa 3 Thủ Đức và gia nhập binh chủng Nhảy dù vào tháng 10 cùng năm. Từ 1955 đến 1964, Nguyễn Khoa Nam mang lon đại úy. Năm1965 ông lên quân hàm thiếu tá và giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù.
Năm 1967, Nguyễn Khoa Nam được thăng cấp trung tá và được bổ nhiệm làm Lữ đoàn trưởng của Lữ đoàn 3 Nhảy dù. Cuối năm này ông được thăng đại tá. Năm 1969 ông giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh, kiêm Tư lệnh Khu Chiến thuật Tiền Giang. Tháng 11 cùng năm ông được thăng chuẩn tướng. Năm 1972 ông được thăng thiếu tướng.
Tháng 11 năm 1974, Nguyễn Khoa Nam được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn IV và Vùng IV Chiến thuật đến năm 1975.
Khi xảy ra sự kiện 30 tháng 4, 1975, Nguyễn Khoa Nam vận bộ lễ phục trắng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa dùng súng Browning bắn vào màng tang tự sát vào khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975[1]. Thi thể ông được an táng trong Nghĩa Trang Quân Đội Cần Thơ, đến năm 1994 thì được hỏa thiêu, tro cốt để tại chùa Quảng Hương Già Lam, địa chỉ số 498/11 đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh.
Nguyễn Khoa Nam là một phật tử thuần thành, ông thường nghiền ngẫm kinh Phật, sách triết học và Nho học. Nguyễn Khoa Nam là một quân nhân thuần túy không xen vào chính trị, có cuộc sống giản dị, không xa hoa, không bị tai tiếng tham nhũng và được binh sĩ yêu mến.[2]


Phạm Văn Phú (1929-1975) nguyên thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Ông sinh năm 1929 tại Hà Đông.
Năm 1953, Phạm Văn Phú tốt nghiệp Học viện Võ bị Liên quân Đà Lạt khóa 6, sau đó phục vụ trong binh chủng Nhảy dù của quân đội Liên Hiệp Pháp.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông chiến đấu trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã từng bắt nhịp bài La Marseillaise (Quốc ca Pháp) cho lính Quốc gia Việt Nam vừa hát vừa xông lên phản kích ở đồi C1 nên được các sĩ quan Pháp cảm kích. Khi Điện Biên Phủ thất thủ, Việt Minh bắt giam cùng với Bréchignac, Botella, Clédic, Mackowiak và nhiều quân nhân khác.[1]
Sau Hiệp định Geneve, ông được trao trả và phục vụ trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Năm 1962, Phạm Văn Phú thăng cấp Thiếu tá và giữ chức vụ Liên đoàn trưởng Liên đoàn Quan sát 77 Lực lượng Đặc biệt.
Năm 1964, Phạm Văn Phú được thăng Trung tá và giữ chức Tham mưu trưởng Lực lượng Đặc biệt.
Năm 1966, được thăng cấp Đại tá, giữ chức Tư lệnh Phó Sư đoàn 2 Bộ binh sau đó làm Tư lệnh Phó Sư đoàn 1 Bộ binh.
Năm 1968, Phạm Văn Phú được cử giữ chức vụ Tư Lệnh Biệt Khu 44 và năm 1969 được thăng cấp Chuẩn tướng.
Năm 1970, ông giữ chức vụ Tư Lệnh Lực Lượng Đặc Biệt và sau đó được bổ nhiệm giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
Năm 1971, ông được thăng Thiếu tướng. Năm 1974, Phạm Văn Phú giữ chức vụ Tư lệnh Quân đoàn II Vùng II Chiến thuật.
Tháng 3/1975, chiến dịch Tây Nguyên của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh sụp gần như hoàn toàn Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Tây Nguyên. Phạm Văn Phú bị triệu về Sài Gòn và ông cáo bệnh không ra trình diện.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Phạm Văn Phú tự sát bằng cách uống một liều thuốc cực mạnh, được gia đình đưa vào bệnh viện Grall và chết vào trưa ngày 30 tháng 4, sau khi Tổng thống Dương Văn Minh đầu hàng.


Lê Văn Hưng : chuẩn tướng (Tư lệnh phó Quân đoàn IV, Vùng IV Chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hoà), là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Ông sinh ngày 27 Tháng 3 năm 1933 tại Hóc Môn.
Sau khi tốt nghiệp khóa 5 (Vì Dân) Sĩ quan trừ bị Thủ Đức vào tháng 1 năm 1955, Lê Văn Hưng trải qua các chức vụ chỉ huy từ cấp đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn tại chiến trường miền Tây Nam phần.
Năm 1966 ông được thăng cấp Thiếu tá giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 31 bộ binh. Thời gian này Lê Văn Hưng được các phóng viên chiến trường gọi là một trong ngũ hổ (năm con hổ) U Minh Thượng
Năm 1967 ông thăng cấp Trung tá rồi Đại tá năm 1968. Hai năm sau ông được bổ làm tỉnh trưởng Phong Dinh.
Năm 1971 Lê Văn Hưng được bổ nhiệm giữ chức vụ Tư lệnh Sư đoàn 5 Bộ Binh
Năm 1972 ông được thăng cấp chuẩn tướng giữ chức tư lệnh phó Quân khu 3 sau khi chiến thắng chiến trường An Lộc.
Năm 1973 Lê Văn Hưng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 21 Bộ Binh,
Năm 1974, ông đảm nhận chức vụ Tư lệnh phó Quân đoàn 4
Ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại văn phòng Tư lệnh phó ở bộ chỉ huy của Quân đoàn 4, sau khi nói lời từ giã với gia đình và bắt tay từ biệt tất cả binh sĩ bảo vệ bộ chỉ huy, người được gọi là "Anh hùng tử thủ An Lộc" do những chiến tích trong Trận An Lộc đã dùng súng lục bắn vào tim tự sát vào lúc 20 giờ 45.


Lê Nguyên Vỹ (1933-1975) chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, là một trong năm tướng lĩnh đã tự sát trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Ông sinh ngày 22 Tháng 8 năm 1933 tại Sơn Tây.
Năm 1951 ông theo học khóa 2 (Lê Lợi) trường Võ bị Địa phương Huế đến năm 1965 thì thăng Thiếu tá.
Ông tham gia trong chiến trường An Lộc tử thủ căn cứ chỉ huy. Sau khi chiến thắng, Lê Nguyên Vỹ được đề bạt lên làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 21 Bộ Binh.
Năm 1974, Lê Nguyên Vỹ được thăng chuẩn tướng sau khi học một khóa học chỉ huy và tham mưu cao cấp tại Hoa Kỳ và giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh .
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi nghe nhật lệnh của tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa các cấp buông súng, ai ở đâu thì ở đó và chờ quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Namđến bàn giao. Lê Nguyên Vỹ ra lệnh cho binh sĩ treo cờ trắng trước cổng căn cứ và cho thuộc cấp giải tán. Sau đó Lê Nguyên Vỹ dùng khẩu Beretta 6.35 bắn vào đầu tự sát ở bộ tư lệnh Lai Khê.
Thi thể Lê Nguyên Vỹ được an táng trong rừng cao su gần doanh trại Bộ Tư Lệnh, sau đó được thân nhân bốc lên đem về cải táng ở Hạnh Thông TâyGò Vấp.
Năm 1987, hài cốt Lê Nguyên Vỹ được thân mẫu (mẹ) hỏa thiêu và đem về thờ ở từ đường họ Lê Nguyên tại quê nhà ở tỉnh Sơn Tây.
Lê Nguyên Vỹ được đánh giá là một chiến binh quả cảm, một sĩ quan mẫn cán, năng nổ, có tài tham mưu và là một chỉ huỵ bộc trực, thanh liêm, chống tham nhũng. Ông là một trong những vị tướng hiếm hoi của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tinh thần tự lực cánh sinh, tinh thần tự trọng cao độ, không bao giờ ỷ lại vào sự trợ giúp từ phía Hoa Kỳ.[1]


Trần Văn Hai (1929-1975) chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là một trong năm tướng lĩnh đã tuẫn tiết trong sự kiện 30 tháng 4, 1975.
Chuẩn Tướng Trần Văn Hai sinh Tháng Giêng năm 1929 tại Cần Thơ.
Năm 1951, Trần Văn Hai tốt nghiệp trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt với cấp thiếu úy.
Năm 1960, Trần Văn Hai được gởi sang thụ huấn khóa Chỉ huy và Tham mưu Cao cấp tại Hoa Kỳ.
Năm 1963, Trần Văn Hai được thăng thiếu tá và giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trung tâm Huấn luyện Dục Mỹ.
Năm 1965, Trần Văn Hai được thăng trung tá và bổ nhiệm vào chức vụ Tỉnh Trưởng Kiêm Tiểu Khu Trưởng Phú Yên.
Năm 1968, Trần Văn Hai giữ chức Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc Gia thay Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Loan.
Năm 1970, Trần Văn Hai rời ngành cảnh sát với cấp bậc Chuẩn tướng để giữ chức vụ Tư lệnh Biệt khu 44.
Năm 1971, Trần Văn Hai giữ chức vụ Chỉ Huy Trưởng binh chủng Biệt Động Quân một lần nữa.
Năm 1972, Trần Văn Hai được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Phó Hành Quân của Quân đoàn Đoàn II và Quân khu 2 đặc trách biên phòng.
Năm (1973), Làm chỉ huy trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lam-Sơn Kiêm Chỉ huy trưởng Huấn Khu Dục-Mỹ (Tỉnh Khánh Hòa),Quân Đoàn II.
Năm 1974, Trần Văn Hai được bổ nhiệm chỉ huy Sư đoàn 7 Bộ Binh Thay thế thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam.
Trước sự kiện 30 tháng 4, 1975 khoảng hơn một tuần, đích thân Tổng Thống Thiệu cho máy bay riêng xuống rước Chuẩn Tướng Hai di tản nhưng ông từ chối.[1]Chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi cho binh sĩ rời quân ngũ theo lệnh của Tổng thống Dương Văn Minh, Trần Văn Hai đã dùng thuốc độc tự vẫn trong phòng làm việc tại căn cứ Đồng Tâm. Thi thể ông được mẹ đem về mai táng tại Gò Vâp.
Trần Văn Hai được đánh giá là một tướng thanh liêm, chăm lo tốt đời sống binh sĩ thuộc quyền.[1]


Hồ Ngọc Cẩn (1938-1975) là một Đại tá Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù có lệnh củaTổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh ra lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng, ông vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tiếp quản. Ông cuối cùng cũng bị bắt và bị xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.
Ông sinh ngày 24 tháng 3 năm 1938, tại Cần Thơ. Thân phụ là một hạ sĩ quan trong Quân đội Quốc gia Việt Nam. Khi ông bắt đầu đi học năm (1945) thì Chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ, nên sự học bị gián đoạn. Mãi đến năm 1947 ông mới được đi học lại. Ông học chỉ đứng trung bình trong lớp. Năm 1951, phụ thân nộp đơn xin cho ông nhập học Trường Thiếu sinh quân Đệ nhất quân khu ở Gia Định. Ông được thu nhận vào lớp Nhì niên khóa 1951-1952, học theo chương trình Pháp và đỗ tiểu học năm 1952.
Cuối năm 1952, trường sở chuyển từ Gia Định về Mỹ Tho. Ông tiếp tục theo học ở đây cho đến năm 1955.
Năm 17 tuổi, ông được gửi lên học tại Liên trường võ khoa Thủ Đức, chuyên ngành vũ khí, niên khóa 1955-1956. Sau 3 tháng, ông đậu chứng chỉ chuyên môn về vũ khí bậc nhất với hạng ưu[cần dẫn nguồn]. Sáu tháng sau đó, ông lại đậu chứng chỉ bậc nhì, và bắt đầu phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa với cấp bậcBinh nhì. Sau 9 tháng sau, ông được thăng cấp bậc Trung sĩ huấn luyện viên về vũ khí.[cần dẫn nguồn]
Vào những năm 1960-1961, ông được nhập học khóa đào tạo sĩ quan đặc biệt nhằm giải quyết nhu cầu thiếu sĩ quan của Quân đội Việt Nam Cộng hòa và tốt nghiệp với Cấp bậc chuẩn úy. Sau khi ra trường, ông tiếp tục được cử theo học một khóa huấn luyện Biệt động quân, rồi thuyên chuyển về phục vụ tại Tiểu đoàn 42 Biệt động quân với chức vụ Trung đội trưởng, thuộc Khu 42 chiến thuật. Do lập được nhiều công lao, ông nhiều lần được thăng cấp đặc cách tại mặt trận, lên đến cấp Trung úy và được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 42.[cần dẫn nguồn]
Cuối năm 1966, ông được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 33, Sư đoàn 21 Bộ binh. Năm 1968, nhờ có nhiều công lao trong Sự kiện Mậu Thân, ông được thăng hàm thiếu tá và đươc xem là người có nhiều huy chương nhất quân đội.[cần dẫn nguồn]
Năm 1970, ông được thăng hàm Trung tá và được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 15, Sư đoàn 9 Bộ binh. Năm 1972, ông cùng Trung đoàn 15 được lệnh tham gia Trận An Lộc. Cuối năm 1973, ông bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng, kiêm Tiểu khu trưởng tỉnh Chương Thiện với cấp bậc Đại tá.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, mặc dù có lệnh của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh ra lệnh từ Sài Gòn kêu gọi buông súng, ông vẫn tiếp tục chiến đấu chống lại lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vào tiếp quản. Cuối cùng ông bị bắt và mang ra xử bắn tại sân vận động Cần Thơ ngày 14 tháng 8 năm 1975.




LỊCH SỬ

TRUNG TÁ CẢNH SÁT QUỐC GIA NGUYỄN VĂN LONG
 BẢO QUỐC CÔNG THẦN
















Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017

BẢN CHẤT TÀN BẠO CỦA CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ THỰC CHẤT CỦA CÁI GỌI LÀ HÒA HỢP HÒA GIẢI DÂN TỘC...









           SỰ THẬT - CÔNG LÝ - TÌNH YÊU



Do Minh Tuyen


Bản chất thật sự của giới cộng sản cầm quyền hiện nay tại Việt Nam và vấn đề hòa hợp hòa giải Dân tộc...là những vấn đề đang được nhiều người muốn biết và đề cập nhiều nhất hiện nay. Trước hết, chúng ta hãy nghiêm túc xem xét và nhìn nhận một cách khách quan trung thực về bản chất thật sự của những người cộng sản nói chung và giới cộng sản cầm quyền hiện nay tại Việt Nam nói riêng.... vâng, hai từ "Cộng sản" có lẽ cũng chẳng ai còn xa lạ cả về nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Trở về quá khứ ở thập niên 1950 khi cộng sản đánh đuổi Pháp và lên nắm chính quyền tại miền Bắc Việt Nam, Hồ Chí Minh...người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam thời bấy giờ dưới danh xưng mỹ miều là "Đảng Lao Động Việt Nam"... đã phơi bày cái bản chất tàn bạo và xấu xa của những người cộng sản qua cái gọi là chương trình nhằm xóa bỏ Văn hóa Phong kiến...nhựng thực chất chính là sự trả thù ti tiện và ăn cướp trắng trợn tài sản của người dân một cách bỉ ổi và vô liêm sỉ của chế độ vốn được giới cộng sản cầm quyền lúc bấy giờ khoác lên cái danh xưng nhẹ nhàng là "Cải cách ruộng đất"...



Bản chất tàn bạo và xấu xa đó của những người cộng sản cầm quyền tại miền Bắc Việt Nam thời bấy giờ đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm ngàn người dân vô tội mà chúng đã phù phép họ trở thành thành phần địa chủ, thành phần phản động và có nợ máu với nhân dân..v...v... điều này đã thật sự trở thành cơn ác mộng khủng khiếp của người dân sống tại miền Bắc thời bấy giờ...và cũng chính vì thấy được sự tàn ác dã man của những người cộng sản dưới cái vỏ bọc Thánh thiện và Chính nghĩa... hàng triệu người dân vào năm 1954 đã lũ lượt rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn chạy trốn Cộng sản vào sinh sống tại miền Nam Việt Nam khi Đất nước bị chia đôi bởi Hiệp định Genève Thụy Sỹ.



Chưa dừng tại đó...với tham vọng và bản chất ti tiện xấu xa, giới lãnh đạo Cộng sản cầm quyền tại miền Bắc Việt Nam tiếp tục giở chiêu trò bằng cách tuyên truyền gian dối rằng đồng bào ruột thịt của mình đã và đang sống đau khổ vì bị bóc lột dã man dưới chế độ tàn bạo của Mỹ- Ngụy tại miền Nam Việt Nam...và với phương cách xấu xa đó, chúng đã gieo vào lòng người dân tại miền Bắc Việt Nam sự căm phẫn tột độ dẫn đến việc hình thành Mặt trận Giải phóng Dân tộc với kế hoạch cưỡng chiếm miền Nam và Thống nhất Đất nước...để rồi một vụ thảm sát khác thật kinh hoàng đã diễn ra tại Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968 tiếp tục cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người dân vô tội.



Và rồi sau cái gọi là giải phóng miền Nam thống nhất Đất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975... hàng trăm ngàn cựu Quân nhân Cán chính... những người từng đã phục vụ cho Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam đã bị những người Cộng sản trả thù một cách man rợ, bỉ ổi và hèn hạ trong các trại tập trung cải tạo khét tiếng là tàn bạo... dẫn đến bỏ mạng trước khi được trả tự do về với người thân của mình...và rồi sự tàn ác và trả thù một cách ti tiện bỉ ổi của những người Cộng sản cầm quyền lúc bấy giờ dường như vẫn chưa đủ...chúng đã trăm phương ngàn cách tìm mọi cách hành hạ và áp bức chính cả người thân của những nạn nhân đau khổ đó...và hàng loạt các vụ đổi tiền xen lẫn đánh "Tư sản" chiếm đoạt tài sản nhà cửa và đất đai của người dân cuối cùng đuổi tất cả mọi người đến sinh sống nơi vùng thiêng nước độc gọi là "Vùng Kinh tế mới"...



Cao điểm vào những thập niên 1980... những Cựu Quân nhân Cán chính nào còn may mắn sống sót đã cùng những người dân khốn khổ tìm mọi cách vượt biên chạy trốn khỏi Chế độ Cộng sản tàn bạo này trên những chiếc thuyền mong manh lênh đênh trên biển...hàng trăm ngàn người Việt Tị nạn chạy trốn Chế độ đã may mắn được tàu thuyền nước ngoài vớt hoặc sống sót đến được các trại Tị nạn thuộc vùng Đông Nam Á bao gồm Malaisia, Thailand, Hongkong và Indonesia...và sau đó được định cư tại các Quốc gia Tự do khắp mọi nơi trên Thế giới. Bên cạnh đó, hàng trăm ngàn đồng bào Việt Nam khác của chúng ta kém may mắn đã phải vùi thây dưới lòng Đại dương hoặc đã bị Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam bắt lại bỏ tù và hành hạ với tội danh là phản quốc....



Sau khi cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam và cai trị cả hai miền Nam Bắc Việt Nam...những người Cộng sản này tự cho mình những phần thưởng vốn sẵn có tại miền Nam Việt Nam hoa lệ và sung túc...chúng chia chác nhau mọi tài sản và nhà cửa đất đai mà họ cướp được của người dân qua các vụ đổi tiền, đánh Tư sản...v...v... và cùng nhau chia chác quyền lực để tiếp tục hành hạ người dân và tạo ra nhiều cơ hội tham nhũng có thể... vốn là những người Cộng sản chuyên sống trong rừng rú và những nơi sình lầy bẩn thiu... không học thức... không tài năng và không cả đạo đức...thì làm sao cai trị người dân và điều hành Đất nước tốt cho được ngoài việc tham nhũng và tận hưởng cuộc sống trụy lạc xa hoa...như cách bù đắp cho những ngày gian nan khốn khó khi họ còn đang ở trong rừng làm cách mạng.



Ông Bà ta ngày xưa có câu ăn ở không thì có núi vàng cũng sập...huống chi hàng ngàn hàng triệu cán bộ đảng viên Cộng sản cầm quyền thay nhau thậm chí bắt tay nhau tham nhũng...thì Đất nước không tan hoang người dân không đau khổ mới là chuyện lạ...vâng, hàng loạt các dự án hàng nghìn tỷ thay nhau thua lỗ vì bị rút ruột... hàng loạt tượng đài nghìn tỷ thay nhau mọc lên để tạo cơ hội cho các quan chức Cộng sản từ địa phương đến Trung ương vơ vét tham nhũng... dẫn đến ngân quỹ cạn kiệt... và để có đủ tiền lấp vào, bọn Cộng sản lãnh đạo cầm quyền trăm phương nghìn cách quay sang hút máu người dân và điển hình là hàng loạt các sắc thuế khổng lồ phi lý mà người dân cũng như con cháu của họ đã, đang và sẽ phải gánh chịu qua sự vay mượn vô tội vạ của Chính phủ... không những thế, tài sản đất đai nhà cửa của người dân cũng không thoát khỏi bàn tay nhám nhúa và tàn ác của giới lãnh đạo chính quyền các cấp qua cái gọi là "Quy hoạch nhà đất"...dẫn đến hàng ngàn, hàng chục và hàng trăm ngàn người dân mất Nhà cửa đất đai và tài sản sống vất vưỡng mà chúng ta có thể thấy được dưới danh nghĩa là "Dân oan" trên phạm vi cả nước.



Tàn bạo như thế... vô đạo đức như thế vẫn chưa đủ... giới lãnh đạo Cộng sản cầm quyền tại Việt Nam hiện nay còn trâng tráo và vô liêm sỉ đến mức độ vì lợi ích của bản thân và bảo vệ sự tồn tại cho chế độ lẫn quyền lực của bản thân mình... họ đã mặt dày mày dạn đội cả kẻ thù xâm lược lên đầu qua cái gọi là mối quan hệ cộng sản anh em...mối quan hệ đồng chí môi hở răng lạnh với 16 chữ vàng và 4 tốt... bất chấp chủ quyền Biển đảo... bất chấp Tổ quốc Quê hương và Dân tộc sẽ đi về đâu... mà lịch sử đã từng ghi nhận qua cái văn bản bán nước của Thủ tướng Phạm văn Đồng năm 1958... cũng như hiệp ước mật Thành đô năm 1990...và nhiều văn bản chìm nổi mà lãnh đạo Nhà nước Cộng sản Việt Nam và lãnh đạo Cộng sản xâm lược Trung quốc đã ký kết trong những chuyến công du sang Trung quốc gần đây của giới lãnh đạo Đảng và lãnh đạo Nhà nước Cộng sản Việt Nam.



Người dân quá đau khổ và chịu đựng quá đủ dẫn đến bức xúc... hàng loạt các cuộc xuống đường phản đối nhỏ có lớn có... và ngày càng nhiều tiếng nói phản biện lẫn tố cáo các tội ác man rợ của giới lãnh đạo cộng sản cầm quyền hiện nay tại Việt Nam tràn ngập trên mạng... điều này khiến giới lãnh đạo Đảng và Nhà nước cộng sản Việt Nam cảm thấy lo sơ... cảm thấy quyền lực bị đe dọa và vì thế bất chấp Luật pháp, bất chấp Hiến pháp Nhà nước và Công pháp Quốc tế... Nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam ra sức bắt bớ tất cả những ai bất đồng quan điểm và chính kiến với Nhà nước bằng những điều khoảng phi lý và bất cập trong Bộ luật Hình sự như điều 88 với tội danh "Tuyên truyền chống nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam"... Điều 258 với tội danh "Lợi dụng Dân chủ có hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước"... hay Điều 79 với tội danh "Âm mưu lật đổ chính quyền"...v...v... và với những trường hợp khác chưa cần phải bắt bớ thì Nhà cầm quyền ngay cả kết hợp với côn đồ sách nhiễu, trấn áp và hành hung họ bằng mọi cách, mọi thủ đoạn...



Kinh tế lụn bại... Nợ công vượt ngưỡng... vốn ODA và các khoản viện trợ bị cắt bỏ hoặc bị hạn chế, thậm chí vay mượn không còn ai cho nữa trong lúc Ngân sách Nhà nước đã quá cạn kiệt không còn cách nào cứu vãn được nữa, thì những người Cộng sản cầm quyền tại Việt Nam chợt nghĩ đến hàng tỷ dollars từ cộng đồng người Việt tại Hải ngoại rót về... và kể từ đó, những người Việt Tị nạn Cộng sản ngày trước bỏ nước ra đi vốn được xem là thành phần phản quốc... nay bổng chợt nhiên được trở thành "Khúc ruột nghìn dặm" không thể tách rời của Việt Nam... và cái gọi là mong muốn " Hòa hợp Hòa giải Dân tộc" đã được hình thành và kêu gọi kể từ ngày đó...



Lấy chân thành xóa hố sâu thù hận... đó chính là điều mà cả hai bên Thắng cuộc lẫn Thua cuộc cần phải tâm niệm để có thể xúc tiến tiến trình hòa hợp hòa giải Dân tộc... Tuy nhiên, bên thua cuộc, những người dân và cựu Quân nhân Cán chính của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa... những thành phần bị Cộng sản trả thù và áp bức một cách tàn tệ nay đang sống sung túc ở Hải ngoại tất nhiên trong lòng họ khó lòng không khỏi oán hận cái chế độ cộng sản bạo tàn và khát máu... nhưng những người Cộng sản cầm quyền ... những người thắng cuộc đã đối xử vô đạo đức và tàn bạo với những người thua cuộc trong quá khứ thì nay vẫn tiếp tục ức hiếp dân lành... vẫn tiếp tục cướp của giết người bằng mọi thủ đoạn tàn ác...tiếp tục bán nước cầu vinh thì làm sao có đủ tư cách nói đến chuyện Hòa hợp Hòa giải Dân tộc. Mục tiêu của những người Việt Tị nạn Cộng sản là mong muốn Tự do Dân chủ cho Quê hương Đất nước Việt Nam... cho người thân và gia đình của họ... và điều này hết sức rất rõ ràng... thế nhưng mục tiêu của những người cộng sản cầm quyền thì sao...? có thật sự xem Kiều bào Việt Nam như khúc ruột nghìn dăm không thể tách rời...và mong muốn hòa hợp hòa giải xóa bỏ hận thù như họ đã từng rêu rao... hay mục tiêu thật sự của bon thú đội lốt người này chính là hàng tỷ dollars ngoại tệ từ Cộng đồng người Việt tại Hải ngoại rót về trong những năm qua... mà qua đó có thể giúp vực dậy nền kinh tế vốn cạn kiệt không thể cứu vãn...



Với bản chất tồi tệ như thế của những người Cộng sản cầm quyền hiện nay tại Việt Nam... với những sự kiện lịch sử và nỗi đau khổ quá... nỗi mất mát đớn đau quá to lớn mà đồng bào Việt Nam nói chung cũng như đồng bào tại miền Nam Việt Nam nói riêng phải gánh chịu trong suốt nhiều thập niên qua thì việc Hòa hợp Hòa giải Dân tộc giữa bên thắng cuộc và người thua cuộc thật sự không dễ dàng... chưa nói đến lòng thành thật mong muốn hòa hợp hòa giải ở mức độ nào của những người thắng cuộc Cộng sản cầm quyền hiện nay tại Việt Nam. Ông Bà ta ngày trước vẫn thường hay nói rằng... đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh người quay lại... thế nhưng biểu hiện và cách hành xử của giới lãnh đạo Nhà nước Cộng sản cầm quyền hiện nay tại Việt Nam đã cho chúng ta thấy rằng họ đã không... và chưa bao giờ là kẻ muốn quay lại... Do vậy, việc Hòa hợp Hòa giải Dân tộc được đề cập đến hiện nay dường như chỉ có thể đạt được đến khi nào Quê hương Đất nước Việt Nam thật sự không còn hai từ "Cộng sản"...